Mục tiêu 20 triệu tấn hydrogen xanh sản xuất vào năm 2050 không phải là ảo vọng

Tôi có đọc bài viết “Làm thế nào để Việt Nam có 20 triệu tấn hydrogen xanh vào năm 2050?” của tác giả Tiến sĩ Lê Hải Hưng – ĐH Bách Khoa Hà Nội – được đăng tải trên VietNamNet ngày 07/08/2025. Bài viết đã dẫn chiếu 2 văn bản pháp lý làm nền tảng ban đầu của chiến lược phát triển hydrogen xanh tại Việt Nam:

Quyết định số 893/QĐ-TTg của Thủ tướng CP ngày 26/07/2023 với mục tiêu 30 triệu tấn hydrogen xanh vào năm 2050 và Quyết định số 165/QĐ-TTg của Thủ tướng CP ngày 07/02/2024 với mục tiêu 20 triệu tấn hydrogen xanh vào năm 2050.

ong mai huy tan.jpg
TS Mai Huy Tân. Ảnh: THDV

Bài viết của tác giả Lê Hải Hưng cũng nêu giả định nguồn điện tái tạo là 50% điện gió ngoài khơi và 50% điện mặt trời để điện phân nước với quy mô 180 triệu m3 nước siêu sạch/năm. Tổng quy mô đầu tư là những con số khổng lồ được tính toán khá cụ thể.

Với vai trò nhà đầu tư dự án đầu tiên sản xuất hydrogen xanh tại địa điểm thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, tôi xin có bổ sung một số ý kiến như sau:

Các nhà máy điện phân nước để sản xuất hydrogen xanh cần có nguồn điện tái tạo là điện nền ở ngay gần địa điểm của nhà máy điện phân nước. Nếu chỉ sử dụng nguồn điện gió ngoài khơi và điện mặt trời thì rất khó tìm được địa điểm phù hợp cho nhà máy điện phân nước quy mô lớn vì nó đòi hỏi hệ thống mạng lưới truyền tải điện tái tạo với rất nhiều chi phí đầu tư và thủ tục đầu tư rất phức tạp. 

Bài báo không đề cập đến nguồn điện nền từ công nghệ điện sinh khối để tạo ra từ biogas trong khi Việt Nam có tiềm năng sinh khối hàng tỷ tấn/năm để tạo ra hàng nghìn tỷ kwh điện tái tạo với thời gian phát điện trên 8.000 h/năm.

Nếu chỉ có nguồn điện gió ngoài khơi và điện mặt trời thì việc cung ứng điện liên tục 24/7 để đảm bảo sự hoạt động liên tục có hiệu quả cao của nhà máy điện phân nước sẽ trở nên rất khó khăn hoặc đòi hỏi phải đầu tư hệ thống lưu điện với chi phí đầu tư cao. Tức là nếu nguồn điện tái tạo là điện gió ngoài khơi và điện mặt trời thì còn thiếu những khoản tiền khổng lồ để truyền tải điện từ ngoài khơi vào bờ rồi dẫn tới nhà máy điện phân nước, đồng thời phải đầu tư những hệ thống lưu điện. 

Bài báo cũng phân tích chính xác về tính phi kinh tế nếu sản xuất hydrogen xanh để sử dụng hydrogen xanh sản xuất lại điện khi nêu ra con số thú vị là: cần 65 kWh điện để sản xuất ra 1 kg hydrogen xanh hóa lỏng và từ 1 kg hydrogen xanh hóa lỏng lại chỉ sản xuất được 16,7 kWh điện tái tạo. Đó là sự lãng phí rất phi lý mà không ai trên thế giới sẽ lại lập một kế hoạch theo chu trình đầu tư như vậy!?

Hydrogen 2.jpg
Mục tiêu 20 triệu tấn thậm chí 30 triệu tấn hydrogen xanh được sản xuất tại Việt Nam vào năm 2050 không phải là những mục tiêu ảo vọng phi thực tế. Ảnh:  FreeP!k

Tôi khẳng định người ta sẽ không dùng hydrogen xanh hóa lỏng để phát điện mà phạm vi sử dụng của nó phải nhằm sản xuất những sản phẩm chiến lược của mọi nền kinh tế, thay thế nguyên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, ví dụ như trong ngành luyện kim, công nghiệp hóa chất, công nghiệp hóa dầu. Nhiên liệu xanh hóa lỏng GLH2 đã và đang được sử dụng ngày càng nhiều trong các phương tiện giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt và cả đường không (đang ở giai đoạn thử nghiệm) và có một số máy bay huấn luyện đang dùng nhiên liệu H2 xanh. 

Muốn sử dụng H2 xanh hóa lỏng thì phải sản xuất được các phương tiện lưu trữ và vận chuyển mà hiện nay đã có những sản phẩm được chứng minh trên thực tế là khả thi và có hiệu quả kinh tế. Đó là các container có thể chứa GLH2 ở nhiệt độ âm 235 độ C trong thời gian đủ dài để vận chuyển đường biển với cự li trên 15.000 km trong thời gian dưới 4 tuần. Sau khi cập cảng đường biển, các container đó tiếp tục được vận chuyển bằng đường sắt, đường sông hoặc đường bộ tới địa điểm tiêu thụ. Các bồn chứa H2 hóa lỏng có dung tích lớn cũng đã được sản xuất thành công. 

Đó là những ý kiến bổ sung để nói rằng mục tiêu 20 triệu tấn thậm chí 30 triệu tấn hydrogen xanh được sản xuất tại Việt Nam vào năm 2050 không phải là những mục tiêu ảo vọng phi thực tế. 

Tuy nhiên, điều quyết định nhất không chỉ là những con số tính toán lý thuyết về mặt khoa học mà là mô hình kinh tế nào phù hợp cho chiến lược sản xuất GLH2.

Mô hình kinh tế phù hợp chưa được đề cập đến trong bài báo, thậm chí trong hai quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Mô hình kinh tế tuần hoàn GLH2 phải dựa trên những công nghệ sản xuất điện tái tạo tiên tiến và phù hợp với điều kiện thiên nhiên ưu đãi của Việt Nam (ví dụ phù hợp với khả năng sản xuất hàng tỷ tấn biomass mỗi năm từ nông nghiệp để biến thành điện tái tạo và phân bón hữu cơ).

Đặc biệt, mô hình đó phải tính đến thị trường GLH2 toàn cầu với khả năng vận chuyển GLH2 được sản xuất tại Việt Nam tới các thị trường tiêu thụ với mức giá nhập khẩu cao mang lại lợi nhuận kinh tế cho mô hình đầu tư kinh tế tuần hoàn GLH2.

Tôi chưa thấy ở Việt Nam có 1 dự án đầu tư nào được thực hiện theo hướng này. Rõ ràng nếu muốn các mục tiêu 20 triệu tấn thậm chí 30 triệu tấn GLH2 được sản xuất tại Việt Nam vào năm 2050 thì chính cơ quan ban hành những quyết định nói trên cần phải có một chiến lược được quy hoạch rất chi tiết và cụ thể về chiến lược phát triển thần tốc các mô hình kinh tế tuần hoàn GLH2 được triển khai đồng tốc trong phạm vi cả nước với tốc độ tăng trưởng doanh thu trên 30%/năm.

Ngoài ra, cần huy động được sự tham gia của nhiều tập đoàn kinh tế tư nhân Việt Nam và các tập đoàn doanh nghiệp nước ngoài cùng tham gia phối hợp.

TS Mai Huy Tân, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư Phát triển Xanh THDV

Làm thế nào để Việt Nam có 20 triệu tấn hydrogen xanh vào năm 2050?Việt Nam đặt ra mục tiêu đầy tham vọng là sản xuất 20 triệu tấn hydrogen xanh mỗi năm vào năm 2050.


Đánh giá post này:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *