Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 7 trực tuyến với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức ngày 7/8 do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì, bà Nguyễn Thị Hồng, Thống đốc NHNN cho biết: Tín dụng toàn hệ thống 7 tháng đầu năm tăng khoảng 10% so với cuối năm 2024 – mức tăng khá cao nếu so với 6% cùng kỳ năm trước.
Với lo ngại tín dụng đang “chảy” mạnh vào bất động sản và chứng khoán, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng phân tích: Tốc độ tăng tín dụng vào hai lĩnh vực này đúng là cao hơn mức bình quân chung, song điều đó phù hợp với định hướng tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản. Khi dự án được gỡ vướng về pháp lý, nhu cầu vốn để triển khai là tất yếu.
Trong lĩnh vực chứng khoán, dù tăng trưởng nhanh nhưng dư nợ cho vay chỉ chiếm 1,5% tổng dư nợ, không gây rủi ro hệ thống. Ngân hàng Nhà nước khẳng định vẫn theo dõi chặt các chỉ số an toàn. Hiện, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn vẫn dưới ngưỡng 30%. Đồng thời, cơ quan này liên tục yêu cầu các tổ chức tín dụng cân đối dòng vốn theo kỳ hạn nhằm đảm bảo an toàn cho toàn hệ thống.

Về tỷ giá, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng tỷ giá đang chịu áp lực khá lớn, do tác động kép từ yếu tố kinh tế và tâm lý thị trường. Tính đến nay, tỷ giá VND/USD đã tăng 2,9% so với cuối năm 2024. Trong bối cảnh đó, Thống đốc cho biết nếu áp lực tiếp tục tăng mạnh, Ngân hàng Nhà nước sẽ cân nhắc không tiếp tục giảm lãi suất để tránh ảnh hưởng đến ổn định tỷ giá – từ đó gây bất ổn vĩ mô.
“Chúng tôi sẽ theo dõi sát diễn biến, tùy từng giai đoạn mà đặt ra ưu tiên phù hợp, hướng tới mục tiêu chung là ổn định vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế một cách bền vững”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng khẳng định.
Tại thị trường trong nước, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục ghi nhận đà tăng trưởng cao so với khu vực và thế giới. Theo Thống đốc, lạm phát bình quân đang được kiểm soát ở mức 3,6% – vẫn nằm trong ngưỡng mục tiêu Quốc hội đề ra từ 4,5% đến 5%.
Tuy nhiên, Thống đốc lưu ý: Áp lực lạm phát đang có xu hướng tăng lên. Các yếu tố như điều chỉnh giá điện, giá dịch vụ y tế, giá thuê nhà… đang tạo áp lực chi phí đầu vào và đẩy lạm phát cơ bản tăng liên tục các tháng gần đây. Lạm phát cơ bản – vốn phản ánh tác động dài hạn của chính sách tiền tệ – là chỉ số quan trọng khiến cơ quan điều hành không thể chủ quan.
“Lạm phát khi xuất hiện thì rất nhanh, nhưng để kiểm soát giảm lại thì rất khó, đây là lý do cần điều hành chính sách một cách chủ động, sát diễn biến và thận trọng”, người đứng đầu ngành ngân hàng nhấn mạnh.

Thống đốc khẳng định: Trong 7 tháng đầu năm 2025, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt theo sát diễn biến thực tế. Các biện pháp điều tiết tiền tệ được triển khai nhằm cùng lúc hỗ trợ tăng trưởng và kiểm soát lạm phát.
Các chỉ số tiền tệ cũng ghi nhận tăng trưởng rõ nét. Tổng phương tiện thanh toán tăng 7,5% so với cuối năm 2024 – gần gấp đôi mức tăng cùng kỳ năm trước. Theo lý giải của Thống đốc, mức tăng cao này phần lớn đến từ việc NHNN thực hiện các đề án cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, đặc biệt là cho vay đặc biệt phục vụ chuyển giao các ngân hàng thuộc diện mua bắt buộc.
Bên cạnh đó, việc NHNN sử dụng công cụ thị trường mở để bơm tiền ngắn hạn được áp dụng nhằm hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống tổ chức tín dụng, giúp mở rộng tín dụng mà vẫn giữ ổn định mặt bằng lãi suất. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Chính phủ yêu cầu ổn định lãi suất để hỗ trợ sản xuất kinh doanh, dù tín dụng đang tăng.
Về dài hạn, Thống đốc nhấn mạnh cần có giải pháp đồng bộ để hỗ trợ chính sách tiền tệ hoạt động hiệu quả hơn. Trong đó, có hai đề xuất được đánh giá là trọng tâm.
Thứ nhất, cần phát triển mạnh mẽ thị trường vốn để đáp ứng nhu cầu vốn trung – dài hạn, từ đó giảm áp lực lên nguồn vốn ngắn hạn của hệ thống ngân hàng. Đây là hướng đi đã được Chính phủ đồng thuận tại công điện mới nhất.
Thứ hai, cần mở rộng chương trình bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nếu các doanh nghiệp này được hỗ trợ vay vốn qua cơ chế bảo lãnh, sẽ tạo ra động lực sản xuất mạnh mẽ từ mọi khu vực trong nền kinh tế.
Ngoài ra, với các lĩnh vực như bất động sản và hạ tầng – vốn cần nguồn vốn trung dài hạn lớn thì nên huy động qua kênh phát hành trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu địa phương, hoặc các khoản vay quốc tế.
“Chỉ khi huy động vốn đúng kênh, đúng tính chất thì mới có thể vừa tăng trưởng cao, vừa ổn định bền vững”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng nói.
